Câu chuyện dữ liệu số và hành trình phát triển cảng biển số Việt Nam

Khát vọng CĐS cảng biển Việt Nam

Theo các chuyên gia, triển khai CĐS cảng biển hiện đại góp phần thúc đẩy, thu hút sự quan tâm đầu tư từ nước ngoài. Cảng biển của Singapore hiện nay đã đón được siêu tàu trên 22.000 TEUS (đơn vị đo lường tương đương 1 container 20 feet tiêu chuẩn), một lệnh giao nhận container cần qua 1 – 2 điểm dừng, thực hiện trong 2 – 3 phút. Tại Việt Nam, thời gian trung bình cho một lệnh giao nhận container cần qua 11 điểm dừng, cần 6 – 8 giờ để hoàn thành.

Theo thống kê, Việt Nam có khoảng 145 cảng biển container, tuy nhiên, mới chỉ có 5% doanh nghiệp (DN) kho/bãi/cảng đầu tư vào ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), vì vậy, hiệu quả hoạt động vận hành cảng rất thấp. Việt Nam còn có số lượng lớn các cảng cạn (cảng ICD, depot) cần ứng dụng công nghệ. Đây là thị trường vô cùng lớn cho DN Make in Viet Nam.

Với nỗ lực góp phần triển khai CĐS cảng biển Việt Nam, Công ty TNHH Dịch vụ Tin học CEH, DN tiêu biểu về CĐS cảng biển của Việt Nam trong 10 năm qua, đã tích cực trong CĐS cảng biển, CĐS logistics, góp phần phát triển kinh tế số cảng biển nhằm tăng năng suất, sản lượng, giảm chi phí và nhân sự cho DN.

CEH, công ty được thành lập năm 2015, là công ty phát triển công nghệ chuyên ngành logistics, tiên phong phát triển, ứng dụng các giải pháp hiện đại như giải pháp điều hành cảng biển (VTOS), giải pháp Cảng điện tử (Eport), Cổng thông minh cảng biển (SmartGate), nền tảng tích hợp, kết nối các cảng biển… nhờ ứng dụng công nghệ nhận dạng ký tự quang học (OCR), trí tuệ nhân tạo (AI), hướng tới hình thành hệ sinh thái CĐS cảng biển.

CEH đã triển khai giải pháp VTOS cho khoảng 22 cảng trên toàn quốc, dẫn đầu thị phần CĐS cảng biển trên toàn quốc. Đáng lưu ý là vào năm 2021, CEH mới triển khai được cho 1 cảng. Chỉ trong 2 năm, với cách làm quyết liệt, đột phá, CEH đã đạt được các kết quả đáng ghi nhận.

Bên cạnh đó, một số cảng triển khai thành công VSL đạt được năng lực tương đương như cảng Singapore như các Cảng thuộc tập đoàn Gemadept, Cảng quốc tế SP-ITC, Cảng Sài Gòn, Cảng Hải An,… VSL là hệ sinh thái công nghệ kết nối các thành phần trong chuỗi hoạt động logistics như DN xuất nhập khẩu, cảng biển, hãng tàu, ngân hàng, ICD, DN dịch vụ logistics, depot, DN vận tải… tạo nên một trung tâm điều hành trung gian, xử lý các dịch vụ trực tuyến theo thời gian thực.

Chia sẻ về khát vọng trước thềm năm mới 2024 với phóng viên Tạp chí Thông tin và Truyền thông (TT&TT), ông Tạ Minh Vang, Giám đốc Công ty CEH khẳng định: “CEH định hướng từ nay tới năm 2025, sẽ triển khai giải pháp VTOS phục vụ nhu cầu ứng dụng CNTT, CĐS cho khoảng 75% cảng biển tại Việt Nam – một trong những hạ tầng quan trọng của nền kinh tế. Đây là mục tiêu thách thức thức nhưng rất khả thi”.

Giám đốc Tạ Minh Vang cũng chia sẻ ngay từ ngày đầu, CEH đã xác định giải pháp “Make in Viet Nam” là tiêu chí phát triển nghiên cứu và triển khai. Chiến lược của CEH là làm chủ công nghệ, triển khai với chi phí hợp lý với chất lượng tương đương. Theo đó, sản phẩm VTOS được phát triển tính năng theo văn hóa khai thác thực tế, bổ sung tiện ích nhanh theo quy trình thực tế. Sản phẩm được vận hành linh hoạt, phù hợp với đặc thù riêng của từng cảng. Đây là thế mạnh của sản phẩm Make in Viet Nam so với sản phẩm nước ngoài.

Chính vì vậy, VTOS đã dần thay thế các giải pháp nước ngoài tại Việt Nam với chất lượng tương đương, giá cả chỉ bằng 10 – 20%. Nhiều DN cảng (bao gồm cả các cảng lớn) đang dần dịch chuyển từ sử dụng giải pháp nước ngoài (từ Úc, Hàn Quốc…) sang sử dụng sản phẩm VTOS “Make in Viet Nam”. Thời gian triển khai nhanh, chỉ vào khoảng 6 – 8 tuần, trong khi đó các giải pháp TOS của nước ngoài cần 52 – 56 tuần.

Thời gian triển khai được rút ngắn đáng kể, đến gần 90% đã giúp cho DN cảng gần như có thể khai thác được ngay, tăng hiệu quả đầu tư đó là nhờ CEH tổ chức đào tạo sử dụng được ngay mà không phải phụ thuộc vào chuyên gia nước ngoài nếu mua giải pháp nước ngoài.

Hành trình phát triển dữ liệu – một quá trình lâu dài

Với thời gian triển khai ngắn như vậy, từ cuối năm 2021 đến nay, từ chỗ mới triển khai được 4 cảng, số lượng cảng triển khai đã tăng nhanh lên thành 22 cảng. Dự kiến đến cuối năm 2023, số lượng cảng triển khai/ký hợp đồng triển khai sẽ chiếm 30% tổng số lượng cảng trên toàn quốc.

Nếu nhìn từ góc độ làm chủ công nghệ, ông Tạ Minh Vang chia sẻ thêm CEH làm chủ công nghệ 100%. Vì vậy, sẵn sàng “may đo” tính năng theo nhu cầu đặc thù của từng cảng. Chi phí triển khai VTOS chỉ vào khoảng 10 – 20% so với sản phẩm nước ngoài với tính năng tương đương. Theo đó, “việc làm chủ công nghệ này có ý nghĩa lớn, giải quyết vấn đề “phụ thuộc nhà cung cấp” (vendor lockin), trong đó, DN cảng đang phải trả một khoản phí khá lớn (khoảng 5% phí đầu tư mỗi năm) để duy trì vận hành giải pháp nước ngoài”.

Để có được những thành quả bước đầu trong CĐS cảng biển, ông Tạ Minh Vang cùng với đội ngũ đã lăn lộn với công việc CĐS cảng biển nhiều năm cho rằng đó là một nỗ lực không ngừng nghỉ.

Người đứng đầu CEH cho rằng CĐS cảng biển nghĩa là chúng ta đang chuyển đổi toàn bộ nghiệp vụ, quy trình của cảng và các tương tác giữa cảng với hãng tàu, cơ quan nhà nước: Cảng vụ, Tổng cục Hải quan.“Các dữ liệu liên thông, xác thực tự động từ lúc tàu cập cảng, khai thác bãi cho đến lúc giao container cho khách hàng”.

Trước đây, chỉ có các cảng lớn mới đủ nhân lực, chi phí để triển khai các sản phẩm nước ngoài như: CATOS (Computer Automated Terminal Operating System), TOPS (Terminal Operation System), NAVIS… phục vụ cho việc điều hành khai thác cảng. Tuy nhiên, việc CĐS toàn trình vẫn chưa thực hiện được, do còn thiếu các tác nghiệp truyền dữ liệu hãng tàu (EDI), thanh lý hải quan tự động, hóa đơn điện tử, cổng thanh toán và các tính năng nâng cấp, văn hóa khai thác tại Việt Nam.

Phần mềm VTOS ra đời, ngoài việc tận dụng sáng tạo, kinh nghiệm khai thác lâu năm của đội ngũ cảng khắc phục được những khó khăn nêu trên, còn được thiết kế trên nền tảng công nghệ mới, ứng dụng AI vào tự động hóa xác thực giao dịch, tạo ra một sản phẩm thuần Việt, với giá chỉ 10 – 20% các sản phẩm nước ngoài. Thời gian triển khai phần mềm từ 4 – 6 tuần thay vì 16 – 20 tháng như hiện tại.

Ngày 11/12/2023, sau quá trình đánh giá khắt khe từ Bộ TT&TT, các chuyên gia công nghệ, VTOS được Chính phủ, Bộ TT&TT trao giải Đồng cho sản phẩm Make in Viet Nam. Bước vào đầu năm 2024, sản phẩm VTOS bắt đầu nhận được sự quan tâm, đề xuất hợp tác từ Thái Lan và Campuchia.

Từ hoạt động khai thác cảng trên phần mềm VTOS, ông Vang chia sẻ: “Chúng tôi tích hợp dữ liệu VTOS nhiều cảng vào nền tảng vietnamhub (VSL). Nhằm thực hiện các dịch vụ trực tuyến, xác thực giao nhận không giấy tờ, không dùng tiền mặt, phát hành chứng từ điện tử có giá trị pháp lý và chia sẻ dữ liệu có chọn lọc cho cơ quan quản lý Nhà nước”.

Với dữ liệu hiện tại từ 25 cảng, dự kiến tiếp tục triển khai thêm 20 cảng trong năm 2024. VSL đã đưa vào các dịch vụ theo mô hình kinh tế chia sẻ: Gọi xe container, cho vay tài chính, mua bảo hiểm hàng hóa, Booking container Rỗng theo hình thức container Re-use. Năm 2023, đã có hơn 5,6 triệu giao dịch thành công và dòng tiền qua hệ thống đạt 3.200 tỷ đồng.

Với khối lượng công việc đồ sộ, khi hỏi về những khó khăn, thách thức trong CĐS và phát triển dữ liệu cảng biển số, ông Tạ Minh Vang chia sẻ: “Thật ra, chúng tôi gặp nhiều thuận lợi hơn là khó khăn, khi nhận được sự ủng hộ sát sao của Bộ TT&TT, Bộ Giao thông vận tải. Đặc biệt, CEH nhận được giải Đồng cho sản phẩm Make in Viet Nam năm 2023 sau quá trình đánh giá, sàng lọc khắt khe của Bộ TT&TT. Từ đó, các DN cảng ngày một đặt niềm tin lớn hơn vào sản phẩm VTOS – Make in Viet Nam”.

Nói về khó khăn nếu có, Giám đốc Tạ Minh Vang cho biết chỉ là tư duy của lãnh đạo DN, cho rằng sản phẩm nước ngoài hiện đại hơn sản phẩm trong nước. Việc này cũng đang dần thay đổi theo hướng tích cực.

Sau khi triển khai VTOS tích hợp vào nền tảng cảng biển số VSL, tạo lập dữ liệu logistics thành công. CEH đã vận hành linh hoạt dữ liệu theo mô hình kinh tế số, để mang về các kết quả khả quan về doanh thu, giảm thời gian, chi phí cho khách hàng. Đồng thời chia sẻ dữ liệu giám sát quản lý hàng hóa cho Tổng cục Hải quan, Cảng vụ.

Ông Vang cũng vui mừng chia sẻ thêm nền tảng Cảng biển số VSL còn đáp ứng được tiêu chí tích hợp Cảng Mở tại Cái Mép, Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Mô hình tích hợp dữ liệu dùng chung tại TP. Hải Phòng…

Để câu chuyện dữ liệu nối dài CĐS

Qua quá trình CĐS cảng biển, ông Tạ Minh Vang chia sẻ CEH thấy mình có trách nhiệm trong việc đóng góp, thúc đẩy CĐS Quốc gia. “Chúng tôi mong muốn được tham gia phát triển nền tảng số, tạo lập, khai thác dữ liệu với tinh thần tự nguyện, trong sáng. Với mong muốn các sản phẩm Make in Viet Nam sẽ phục vụ được DN Việt, xuất khẩu ra nước ngoài, mang lại hạnh phúc cho DN, cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước có công cụ quản lý, giám sát và điều hành đất nước phát triển ngày một thịnh vượng hùng cường”.

“Chúng tôi là đơn vị trẻ và nhỏ nên rất cần sự quan tâm của cơ quan Nhà nước trong công tác
quảng bá sản phẩm trong và ngoài nước, tư vấn về hành lang pháp lý, nhằm đảm bảo việc tích hợp, khai thác dữ liệu đáp ứng quy định pháp luật”.

Năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ – Chủ tịch của Ủy ban quốc gia về CĐS xác định là Năm Dữ liệu số quốc gia để thúc đẩy phát triển dữ liệu tận dụng hiệu quả sự bùng nổ dữ liệu trên các nền tảng số Việt Nam, đặc biệt, tập trung cụ thể vào các nội dung: Phát triển dữ liệu mở; phát triển cơ sở dữ liệu; phát triển, thúc đẩy sử dụng các nền tảng số sử dụng thống nhất trên toàn quốc hoặc trong phạm vi mỗi địa phương; nâng cao năng lực quản trị dữ liệu, an toàn, bảo mật dữ liệu.

Với câu chuyện CĐS cảng biển, phát triển và tạo lập dữ liệu CĐS cảng biển của CEH, có thể khẳng định CEH đã bước đầu gặt hái được “quả ngọt” để tạo nên những vụ mùa bội thu.