Theo thông tin từ đơn vị phát triển nền tảng cảng biển số Make in Vietnam, một trong những khó khăn mà họ cần phải vượt qua đó là những định kiến của các doanh nghiệp đối với sản phẩm nội địa.
Ông Tạ Minh Vang, Chủ tịch Công ty Dịch vụ Tin học CEH, đã chia sẻ điều này tại Diễn đàn Quốc gia về Doanh nghiệp Công nghệ số lần thứ VI. CEH vừa giành được giải Đồng trong hạng mục “Sản phẩm công nghệ số xuất sắc trong lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính và logistics” nhờ giải pháp xác thực không dừng tại cảng – SmartGate AI.

Đại diện của CEH cho biết một trong những thách thức lớn trong quá trình phát triển nền tảng cảng biển số 100% Việt Nam là sự e ngại từ các doanh nghiệp vận tải đối với sản phẩm nội địa. Thêm vào đó, các tiện ích và tính năng của giải pháp cũng cần đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt về bảo mật và an toàn thông tin.
Mặc dù đã có những lúc muốn từ bỏ, CEH vẫn nhận được sự hỗ trợ từ Cục An toàn Thông tin thuộc Bộ TT&TT, giúp họ kết nối với nhiều đơn vị và ngành khác để phát triển các tính năng đáp ứng các tiêu chí nêu trên, và từ đó trở thành đối tác công nghệ cho các doanh nghiệp cảng biển.
Ông Vang cho biết rằng trong suốt 11 năm qua, CEH đã kiên trì theo đuổi việc phát triển nền tảng cảng biển số Make in Vietnam vì nhiều lý do chính đáng. Với khoảng 170 cảng container trải dài trên 25 tỉnh thành và khoảng 3.200 km bờ biển, khối lượng hàng hóa giao nhận tại các cảng Việt Nam là rất lớn.
Trước khi có giải pháp nội địa, các cảng biển phải chi tiền cho các giải pháp nước ngoài với chi phí không nhỏ, nhưng vẫn gặp phải một số hạn chế nhất định, như phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, khó khăn trong kết nối và chia sẻ dữ liệu, cũng như thiếu hụt nguồn nhân lực am hiểu công nghệ thông tin.
Sau thời gian dài nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện, nền tảng cảng biển số 100% Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, vượt trội hơn hẳn so với các giải pháp nước ngoài ở ba khía cạnh: giảm thiểu thời gian và số điểm tiếp xúc cần thiết để hoàn thành dịch vụ; tạo dựng kho dữ liệu tập trung nhằm cải thiện quy trình và nâng cao hiệu quả qua việc kết nối với 35 đơn vị cảng biển, hơn 100 hãng tàu, gần 2.000 doanh nghiệp vận tải nội địa và 45.000 doanh nghiệp xuất nhập khẩu; chi phí đầu tư của nền tảng chỉ bằng 10-20% so với các sản phẩm nước ngoài.
Hơn thế nữa, nền tảng này đã góp phần quan trọng vào bức tranh tổng thể của ngành cảng biển Việt Nam, đồng thời giúp hình thành cơ sở dữ liệu cho cảng biển Việt Nam, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước.
Thông qua nền tảng, các cơ quan chức năng có thể theo dõi và giám sát từng container từ khi chúng vào lãnh hải Việt Nam cho đến khi cập cảng và xuất ra khu công nghiệp, trung tâm phân phối.
“Chúng tôi đã chứng minh rằng các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng làm chủ và phát triển sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và hướng tới thị trường toàn cầu,” ông Vang khẳng định.
Nguồn : https://vietnamnet.vn/dinh-kien-chong-gai-cua-nen-tang-cang-bien-so-make-in-viet-nam-2363936.html